Hộ bộ Lục bộ (Việt Nam)

Chi tiết hơn xem tại bài bộ Hộ Tranh vẽ Hộ bộ thời nhà Nguyễn

Hộ bộ thời Lê giữ việc ruộng đất, nhân khẩu, kho tàng, thu phát, bổng lộc, đồ cống nạp, thuế khoá, muối và sắt. Bộ Hộ thời Nguyễn giữ chính sách điền thổ, hộ khẩu, tiền thóc, điều hòa nguồn của cải nhà nước, ngoài ra bộ Hộ còn được xem là bộ Tài chính.

Nhân vật

  • Nguyễn Tông Khuê (1692-1766): Danh thần thời Lê Mạc, quê Thái Bình. Rất giỏi văn chương, đỗ tiến sĩ năm 29 tuổi, làm quan đến Hộ bộ Thị lang và từng hai lần thống lĩnh đoàn đi sứ Trung Quốc. Khẳng khái, cương trực và tài hoa, ông được sĩ phu đương thời ngưỡng mộ, đánh giá là một trong bốn người giỏi nhất kinh đô (Tràng An tứ hổ).
  • Nguyễn Huy Lượng (? - 1808): Văn thần, danh sỹ, quê làng Sủi, Gia Lâm, Chương lĩnh hầu, Hữu Thị lang Bộ Hộ. Năm 1801, vua Cảnh Thịnh làm lễ tế giao ở một địa điểm gần hồ Tây, đã giao cho Nguyễn Huy Lượng, bấy giờ đang làHộ bộ Hữu Thị lang (Hộ bộ thời Lê giữ việc ruộng đất, nhân khẩu, kho tàng, thu phát, bổng lộc, đồ cống nạp, thuế khoá, muối và sắt. Hộ bộ thời Nguyễn giữ chính sách điền thổ, hộ khẩu, tiền thóc, điều hòa nguồn của cải nhà nước, ngoài ra bộ Hộ còn được xem là bộ Lao động Sản Xuất) soạn một bài thơ và một bài phú tiến dâng, và bài kiệt tác Tụng Tây Hồ phú đã ra đời nhân dịp này.
  • Phạm Phú Thứ (chữ Hán: 范富恕; 18201883) là một đại thần triều nhà Nguyễn. Ông cùng với Nguyễn Trường Tộ là những người có quan điểm canh tân đất nước trong những năm cuối thế kỷ 19. Năm 1863, ông được bổ nhiệm chức Lại bộ Tham tri, Tòng Nhị phẩm hàm. Cùng năm đó, ông được cử làm phó sứ trong phái bộ Phan Thanh Giản sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền đông Nam kỳ.Trong khi ở Pháp ông còn đi thăm các nước châu Âu khác như Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Qua chuyến đi này, ông rút ra được nhận thức rằng, chỉ có con đường canh tân mới giúp đất nước thoát khỏi thảm họa lạc hậu. Sau khi về nước, năm 1866 ông được thăng chức Hộ bộ Thượng thư[3].